Người nhiễm bệnh có thể có rất ít hoặc không có triệu chứng trong nhiều năm, có những u chắc, không đau khoảng 1-2cm ở dưới da và ở cơ hoặc có triệu chứng thần kinh nếu não bị ảnh hưởng. Sau nhiều tháng hay nhiều năm, các u này chuyển sang đau và sưng phù rồi hết sưng. Ở các nước đang phát triển, tình trạng u hết phù chính là một trong những nguyên nhân thường gặp nhất gây co giật.
Bệnh lợn gạo (tên khoa học: Cysticercosis) là một bệnh mạn tính có tổn thương ở da, cơ, não của lợn và người do các u nang sán lợn (trong có đầu sán) gây nên và tác nhân là do sán dây ký sinh trong ruột non. Lợn gạo là bệnh trong hệ thống các bệnh ký sinh trùng lây truyền giữa động vật và người. Trong bệnh này, lợn đóng vai trò là vật chủ trung gian lây bệnh mang trong mình các ấu trùng sán dây.
Biểu hiện lâm sàng tuỳ theo vị trí khu trú của nang ở da ảnh hưởng tới thẩm mỹ, ở não có thể gây động kinh, giảm trí nhớ hoặc rối loạn vận động.
Hình ảnh ấu trùng sán lợn.
Sán lợn nguy hiểm như thế nào?
Nhiễm sán dây lợn (ấu trùng sán gạo heo) có thể xảy ra khi ăn thịt lợn sống, chưa nấu chín hoặc quản lý phân chưa tốt. Sau khi lợn ăn phải ấu trùng sán, ấu trùng chui qua thành ruột vào hệ thống tuần hoàn và đi khắp cơ thể lợn. 24-72 giờ kể từ khi ăn phải, ấu trùng sẽ cư trú ở các mô liên kết hoặc các cơ, sau 2 tháng, ấu trùng tạo thành một nang có vỏ bọc ngoài.
Lợn mắc ấu trùng sán được gọi là lợn gạo. Sau thời gian phát triển 2,5-4 tháng, ấu trùng có khả năng lây nhiễm.
Nếu người ăn phải kén sán chưa chết vào dạ dày, dưới tác dụng của dịch vị, ấu trùng thoát khỏi vỏ kén để phát triển thành sán trưởng thành ký sinh ở ruột non. Thời gian hoàn thành chu kỳ khoảng 5-7 tháng. Tuổi thọ của sán dây lợn 20-30 năm, có thể rất lâu tới 70 năm.
Sán gạo heo là bệnh mạn tính có tổn thương ở da, cơ, não... Chúng có thể tồn tại trong cơ thể người rất lâu. Tùy từng vị trí sẽ có các biểu hiện khác nhau.
Ở da: Các nang nhỏ bằng hạt đỗ hoặc hạt dẻ, tròn, chắc, không đau, di động trên nền sâu và lăn dưới da, màu da ở trên bình thường. U nang sán thường nổi ở mặt trong cánh tay, sau nhiều năm sẽ bị vôi hoá, lúc này có thể phát hiện được bằng Xquang.
Ở não: Biểu hiện như một u nang trong não hoặc có thể gây nên nhiều triệu chứng lâm sàng đa dạng không đặc hiệu như tăng áp lực sọ não, cơn động kinh, suy nhược trí năng, rối loạn tâm thần. Bệnh nhân có thể bị liệt, có thể bị đột tử.
Ở mắt: Nang ấu trùng có thể nằm trong hốc mắt, mi mắt, trong kết mạc, thuỷ tinh thể, tiền phòng gây giảm thị lực hoặc bị mù tuỳ theo vị trí của ấu trùng trong mắt.
Ở cơ tim: Làm tim đập nhanh, tiếng tim biến đổi, bệnh nhân bị ngất xỉu.
Ấu trùng sán dây lợn sẽ ở dưới âm 20 độ C. Ở âm 20 - O độ C, nó sống được gần 2 tháng và trong nhiệt độ phòng thí nghiệm sống được 26 ngày. Do đó, nếu muốn dùng thịt sống, người dùng phải ướp thịt ở âm 10 độ C trong 4 ngày mới bảo đảm. Nhiệt độ 50-60 độ C, ấu trùng sán sẽ chết sau 1 giờ.
Nguyên nhân và chẩn đoán
Con người bị nhiễm bệnh thường là do ăn phải thực phẩm hoặc uống nước chứa trứng sán lợn. Rau sống là nguồn lây bệnh chính. Trứng sán lợn ăn phải này xuất phát từ trong phân của người bị nhiễm sán trưởng thành, trường hợp này gọi là bệnh sán lợn trưởng thành. Bệnh sán lợn trưởng thành là một bệnh khác do ăn phải nang sán trong thịt lợn nấu không chín. Những người sống với ai đó bị nhiễm sán lợn thì có nguy cơ cao hơn mắc bệnh ấu trùng sán lợn.Việc chẩn đoán có thể dựa vào chọc hút nang sán. Chụp hình não bằng cắt lớp điện toán (CT) hoặc hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) mang hiệu quả cao nhất trong chẩn đoán bệnh ở não. Số bạch cầu được gọi là bạch cầu ái toan, tăng trong dịch não tủy và máu cũng được sử dụng làm chẩn đoán.
Phòng ngừa và điều trị
Có thể phòng ngừa bệnh hiệu quả bằng vệ sinh cá nhân và cải thiện điều kiện vệ sinh. Việc phòng ngừa bao gồm: nấu thịt heo chín kỹ, nhà vệ sinh hợp quy cách và tăng cường khả năng tiếp cận được nguồn nước sạch. Điều quan trọng để phòng ngừa lây lan là điều trị những người mắc bệnh sán lợn trưởng thành. Bệnh không ảnh hưởng đến hệ thần kinh có thể không cần điều trị. Điều trị những người mắc bệnh ấu trùng sán lợn ở não bằng praziquantel hoặc albendazole. Việc dùng thuốc có thể đòi hỏi thời gian dài. Steroid dùng để chống viêm trong thời gian điều trị và thuốc chống co giật cũng có thể được dùng. Đôi khi phẫu thuật để loại bỏ nang sán.
Đối với người nhiễm sán trưởng thành, việc điều trị rất đơn giản, bệnh nhân sẽ được bác sĩ kê thuốc uống một lần để tiêu diệt sán. Tuy nhiên, nếu nhiễm ấu trùng sán, việc điều trị sẽ khó khăn hơn, đặc biệt là sán ký sinh ở não, cơ. Khi đó, người bệnh sẽ phải điều trị làm nhiều đợt, mỗi đợt thường kéo dài 21 ngày.
Trẻ có xét nghiệm ELISA dương tính với sán lợn sẽ phải tiến hành thêm các xét nghiệm khác để hỗ trợ và xác định bị nhiễm ấu trùng hay sán trưởng thành. Muốn biết ấu trùng sán có ký sinh ở não hay không, người bệnh phải chụp CT hoặc cộng hưởng từ.